Trang chủ / Cây Lúa / Nhận dạng sớm bệnh đạo ôn để phòng trừ hiệu quả!

Nhận dạng sớm bệnh đạo ôn để phòng trừ hiệu quả!



Bệnh đạo ôn, còn gọi là bệnh cháy lá lúa, do nấm Pyricularia grisea (P. oryzae) gây ra. Bệnh tấn công trên lá, cổ lá, đốt thân, cổ gié gây thất  Tại đồng bằng sông Cửu Long, bệnh thường xuất hiện cao điểm vào tháng 11-12 và tháng 5-6 dương lịch. Phát hiện sớm bệnh là một trong những điều kiện quan trọng giúp quản lý hiệu quả bệnh đạo ôn.

1. Nhận diện và phát hiện sớm bệnh đạo ôn trên ruộng lúa

1.1. Nhận dạng vết bệnh trên lá lúa

- Nhận dạng lá lúa mới bị nhiễm bệnh:   Vết bệnh lúc đầu là những chấm rất nhỏ, có màu trắng khi đưa lên ánh sáng (Hình 2). Vết bệnh

phát triển dần thành chấm nhỏ như đầu kim, như bị úng nước, màu xám xanh (Hình 3).

Hình 2. Lá lúa mới bị nhiễm bệnh đạo ôn


Hình 3. Vết bệnh đạo ôn hình chấm kim, màu xám xanh sũng nước (A) và các vết bệnh đang phát triển (B)



- Nhận dạng vết bệnh điển hình trên lá, vẫn đang tiếp tục phát triển  

Vết bệnh lớn dần lên, có hình mắt én, hai đầu nhọn, vết bệnh có màu xám xanh do đài và bào tử nấm phát triển trên đó, viền nâu hẹp hay mờ, có quầng xanh úng nước hoặc màu vàng quanh vết bệnh (Hình 3B, Hình 4, Hình 5A và Hình 5B). 

Vết bệnh tiếp tục lan lớn và liên kết với các vết bệnh khác tạo thành một phần lá bị ngã màu nâu, sau đó tiếp tục phát triển và làm lá bị cháy khô (Hình 6). Trên phần lá cháy khô vẫn còn vết tích của các vết bệnh ban đầu, với tâm xám trắng. 

Bệnh gây hại nặng sẽ làm chết cả bụi lúa. Nhìn từ xa thấy trên ruộng có những lõm lúa cháy nâu và chết lụn xuống, nông dân thường gọi là “lúa bị sụp mặt”.

Vết bệnh điển hình có hình mắt én, hai đầu nhọn, tâm xám trắng, xung quanh viền nâu, hay nâu đỏ, dài 1- 1,5 cm, rộng 0,3- 0.5 cm (Hình 5.C và D). 

Trên giống kháng, vết bệnh là những đốm nâu nhỏ từ bằng đầu kim đến 1-2 mm. Ở giống kháng vừa, vết bệnh có tâm xám trắng, viền nâu, 2-3 mm.

Nói chung, vết bệnh đang phát triển là vết bệnh giống như thấm nước hoặc vết bệnh đang sinh bào tử. Trên ruộng, lá có nhiều vết bệnh dạng này, chứng tỏ bệnh vẫn đang phát triển và cần phải tiếp tục phun thuốc trị bệnh.

 

- Nhận dạng vết bệnh điển hình trên lá, vẫn đang tiếp tục phát triển  

Vết bệnh lớn dần lên, có hình mắt én, hai đầu nhọn, vết bệnh có màu xám xanh do đài và bào tử nấm phát triển trên đó, viền nâu hẹp hay mờ, có quầng xanh úng nước hoặc màu vàng quanh vết bệnh (Hình 3B, Hình 4, Hình 5A và Hình 5B). 

Vết bệnh tiếp tục lan lớn và liên kết với các vết bệnh khác tạo thành một phần lá bị ngã màu nâu, sau đó tiếp tục phát triển và làm lá bị cháy khô (Hình 6). Trên phần lá cháy khô vẫn còn vết tích của các vết bệnh ban đầu, với tâm xám trắng. 

Bệnh gây hại nặng sẽ làm chết cả bụi lúa. Nhìn từ xa thấy trên ruộng có những lõm lúa cháy nâu và chết lụn xuống, nông dân thường gọi là “lúa bị sụp mặt”.

Vết bệnh điển hình có hình mắt én, hai đầu nhọn, tâm xám trắng, xung quanh viền nâu, hay nâu đỏ, dài 1- 1,5 cm, rộng 0,3- 0.5 cm (Hình 5.C và D). 

Trên giống kháng, vết bệnh là những đốm nâu nhỏ từ bằng đầu kim đến 1-2 mm. Ở giống kháng vừa, vết bệnh có tâm xám trắng, viền nâu, 2-3 mm.

Nói chung, vết bệnh đang phát triển là vết bệnh giống như thấm nước hoặc vết bệnh đang sinh bào tử. Trên ruộng, lá có nhiều vết bệnh dạng này, chứng tỏ bệnh vẫn đang phát triển và cần phải tiếp tục phun thuốc trị bệnh.Hình 4. Bào tử nấm gây bệnh đạo ôn hình thành trên vết bệnhHình 5. Vết bệnh điển hình trên các giống lúa khác nhau: giống lúa nhiễm bệnh (A), (B), giống lúa hơi nhiễm bệnh (C) và (D)




Hình 6. Ruộng bị nhiễm bệnh đạo ôn, các vết bệnh liên kết làm lá bị cháy khô

- Nhận dạng vết bệnh đã được kiểm soát và ngừng phát triển

Khi phun thuốc trị bệnh có hiệu quả, vết bệnh trở nên khô, có màu xám trắng, đường viền màu nâu đậm, tâm hình mắt én rõ nét (Hình 7)

Hình 7. Vết bệnh trở nên khô, thuốc trị bệnh có hiệu quả

1.2. Nhận dạng vết bệnh trên cổ lá 

Nấm tấn công tại cổ lá lúa, lúc đầu có màu xanh sũng nước, sau đó tạo ra vết màu nâu nơi cổ lá, làm lá gãy gục (Hình 8). Sau vài ngày lá lúa bệnh bị cháy khô. Điều kiện để triệu chứng đạo ôn cổ lá xuất hiện là giống lúa có phần cổ lá lúa mẫn cảm với bệnh đạo ôn, trên lá có vết bệnh đạo ôn và có mưa đêm hay sương mù dày về đêm.

Bệnh đạo ôn cổ lá, gây thất thoát nghiêm trọng đến năng suất, nhất là khi lá cờ bị tấn công. Triệu chứng cổ lá khó nhận biết phát hiện hơn triệu chứng trên lá, vì vậy bà con cần quan sát kỹ phần cổ lá, đặc biệt là lá đòng. 

Hình 8. Cổ lá lúa bị nhiễm bệnh đạo ôn

1.3. Nhận dạng vết bệnh đạo ôn trên cổ gié và đốt thân 

Đạo ôn cổ gié, còn gọi là đạo ôn cổ bông hay thối cổ gié. Cổ gié mới bị nhiễm bệnh có đốm nhỏ màu hơi sũng nước, sau đó lan ra vòng quanh cổ gié, sau đó chuyển dần sang màu mốc xanh, rồi đến màu nâu hoặc nâu xám (Hình 9). 

Nếu đốm bệnh xuất hiện ngay sau khi trổ bông, thì bông lúa bị lép trắng cả gié lúa, còn gọi là triệu chứng bông bạc. Trường hợp nấm bệnh tấn công cổ gié muộn hơn, lúc hạt lúa đã nặng hạt, làm gié lúa bị gãy đổ xuống, còn gọi là “lúa gãy cổ”.

Ở giai đoạn cong trái me, nấm tấn công lên các nhánh nhỏ của gié lúa làm hạt bị lững và là nguyên nhân quan trọng làm hạt bị rụng nhiều khi thu hoạch, nông dân còn gọi là bị “muối hạt”. Trường hợp vết bệnh xuất hiện muộn hơn, gié lúa bị lép hoặc lững cả gié. 

Vết bệnh ở đốt thân, cổ gié, nhánh gié mới bị nhiễm cũng có màu mốc xanh, dầu chuyển sang màu đen sậm đến đen. 

- Trên hạt: đốm tròn, viền nâu, tâm màu xám trắng, đường kính 1-2 mm.

Hình 9. Vết bệnh trên cổ gié có màu mốc xanh

2. Làm thế nào để phòng trừ hiệu quả bệnh đạo ôn?

2.1. Phòng ngừa bệnh

- Chọn giống: Nên sử dụng giống từ cấp xác nhận trở lên, có tính kháng bệnh hoặc các giống ít nhiễm bệnh.

- Làm đất: 

+ Nên sử dụng các sản phẩm chứa Trichoderma giúp phân hủy rơm rạ nhanh trong điều kiện ngập nước, tránh hiện tượng ngộ độc hữu cơ làm cây dễ mẫn cảm với bệnh.

Cần chang bằng mặt ruộng, hạn chế các chỗ trũng (là những vùng tập trung nhiều phân đạm, tạo điều kiện bệnh phát triển). 

Đánh rãnh thoát nước ruộng. Cứ mỗi 4- 5m làm một rãnh để thoát nước

- Mật độ gieo trồng: Không sạ với mật độ quá cao. Mật độ sạ khuyến cáo là 120kg/ha.

- Bón phân: Không nên bón phân đạm với lượng cao hơn nhu cầu cây lúa. Lưu ý cần gia giảm phân đạm cho lúa tùy theo ruộng và mùa vụ. Trong vụ đông xuân, lượng phân đạm bón cho ruộng cao hơn vụ hè thu và thu đông.

- Quản lý nước: Nếu ruộng khô ở giai đoạn mạ, thì sau này cây sẽ dễ nhiễm bệnh. Trong quá trình phát triển, bệnh sẽ nặng hơn ở những ruộng bị cạn nước so với ruộng luôn ngập nước.

3.2. Trị bệnh hiệu quả theo nguyên tắc 4 đúng

- Đúng thuốc: 

Phun thuốc chứa các hoạt chất : Tricyclazole, Isoprothiolane, Iprobenfos, Azoxystrobine,  Fthalide, Isopropybenzylphotphate.

- Đúng lúc: Đối với bệnh đạo ôn, phải phun thuốc sớm lúc ruộng vừa nhiễm bệnh, do đó việc quan sát bệnh hai ngày/ lần là cần thiết. Khi phát hiện ra dấu chấm kim có màu trắng khi nhìn ngược sáng hoặc xanh sũng nước hoặc chấm kim màu nâu là lúc phun thuốc hiệu quả nhất, vì lúc này vết bệnh chưa kịp sinh bào tử. Bệnh được chặn đứng trong khoảng 15 ngày sau khi phun thuốc. Trong vòng 15 ngày sau khi phun thuốc, các bào tử bệnh mới theo gió đáp xuống lá có thuốc nên không sống được để hình thành vết bệnh.

- Đúng cách: Nguyên tắc chung để phun thuốc trị bệnh đạo ôn hiệu quả là phải phun để thuốc rải đều khắc tất cả các lá, kể cả lá tầng bên dưới tán lá.

  1. Khi vết bệnh là vết chấm kim: tất cả các vết bệnh này là do sự xâm nhiễm của các bào tử do gió mang đến từ xa, đáp xuống ở các phần lá lộ phía bên trên. Đây là vết bệnh mới bắt đầu, nên chưa sinh bào tử, chưa rơi xuống và chưa lây lan cho các tầng lá bên dưới. Trong trường hợp này (chỉ có vết bệnh chấm kim), chỉ cần phun thuốc theo như bình thường, không bị sót lối. Thuốc bám dính đều lên các tầng lá ở trên, nơi có vết bệnh, giết chết nấm bệnh ở các vết bệnh chấm kim. Tầng lá dưới chưa có vết bệnh, nên bệnh được chặn đứng khoảng 15 ngày sau khi phun thuốc. Trong vòng 15 ngày sau khi phun thuốc, các bào tử nấm bệnh mới theo gió đáp lên bề mặt lá cũng không sống được, do vẫn còn thuốc bên trong lá.
  2. Khi vết bệnh đã sinh bào tử: Nếu phát hiện muộn hơn, lá lúa có vết bệnh điển hình là lúc vết bệnh đã sinh bào tử và bào tử đã rơi xuống các lá lúa ở tầng dưới. Do đó phải phun thuốc lại. Phun thuốc sớm, lúc vết bệnh chưa tạo bào tử sẽ giúp trị bệnh hiệu quả hơn.
  3. Khi phát hiện bệnh trễ, tức là khi vết bệnh đã sinh bào tử hoặc vết bệnh đã có hình mắt én. Lúc này, vết bệnh sinh ra nhiều bào tử trong đêm trước và các bào tử này rơi xuống các lá bên dưới trong đêm. Vào ban đêm, bào tử nấm bệnh đã xâm nhập vào trong lá lúa, và sẽ hình thành vết bệnh sau vài ngày. Các lá ở tầng dưới bị lá trên che khuất, nên thuốc không xuống được, nên lần phun thuốc này chỉ hiệu quả với các lá bên trên và một vài ngày sau các lá dưới lại tiếp tục bộc phát bệnh Trường hợp này, nên sử dụng các dụng cụ phun thuốc có thể giúp thuốc bám đều các lá bên trên và các lá ở tầng bên dưới, hoặc phun theo cách chồng lối, hoặc kéo thanh tre cho bụi lúa nghiêng qua lúc phun. Như vậy thuốc sẽ bám đều lên các lá ở bên trên và bên dưới. Nên phun thuốc lặp lại, sau 5- 7 ngày.

 

 

 


Nhận dạng sớm bệnh đạo ôn để phòng trừ hiệu quả!